This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Hai, 1 tháng 1, 2001

Người cao tuổi với bệnh viêm đại tràng xích ma

Trong một dịp cộng tác với hội Người cao tuổi Quận Tân Bình, TP.HCM, tôi may mắn được bác N.T.H. quý mến mời vào nhà chơi.

Bước chân vào ngôi nhà nhỏ của gia đình bác, đã nghe mùi xào nấu thơm nức bốc lên. Bật lon bia trong tủ lạnh, bác H. hồ hởi mời:

"Cháu uống với bác ly bia nhé, chút xíu nữa đồ ăn lên bác cháu mình chuyện trò lai rai. Giờ khỏi bệnh đại tràng rồi, phải làm ly bia để "trả thù" thời gian trước mới được".

Thấy khách có vẻ ngạc nhiên, bác H. cười: "Cháu chưa biết đấy thôi, suốt 4 năm qua bác đã phải kiêng cữ bia rượu mãi rồi, 1 giọt cũng không dám động đến".

"Bác vốn là kế toán trưởng kiêm trưởng phòng tài vụ tại văn phòng hai của Bộ Lâm Nghiệp. Năm 2009, sau một đợt đi ngoài nhiều lần kéo dài, bác đi khám ở bệnh viện Thống Nhất thì được chẩn đoán bị viêm đại tràng xích ma kèm polyp trực tràng. Không tin về mắt mình, bác tìm tới bệnh viện để khám lại nhưng kết quả đều cho tương tự.”

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

“Thì ra là bác bị viêm đại tràng xích ma ạ!”. - Tôi hỏi lại

“Ừ, hồi đó, bác được cho uống nhiều thuốc Tây lắm nhưng vẫn không khỏi. Hễ ăn uống đồ xào, đồ nhậu cộng với bia rượu là biết ngay! Kiêng cữ không đủ, nghe đâu chữa bệnh này bác cũng tìm đến nhưng bệnh thì vẫn hoàn bệnh”, bác H. tiếp lời.

“May sao, xem trên báo có đăng thông tin về 1 sản phẩm, bác thấy rất tin tưởng và không boăn khoăn mua luôn 5 hộp vào dùng”.

Nói rồi, bác đi lấy mấy hộp sản phẩm ra cho tôi xem.

“Dùng cái này tháng đầu chưa thấy hiệu quả đâu, nhưng bác vẫn kiên trì sử dụng tiếp. Đến tháng thứ 3, bụng bác mới êm nhiều, đi ngoài đều đặn ngày 1 lần, có khuôn. Quá vui mừng, bác đã vội lên bệnh viện để nội soi lại và thấy các vết loét niêm mạc đại tràng của mình đang dần hồi phục. Cứ đà thắng lợi này, bác sẽ đi khám lại và ví dụ nhu yếu sẽ cắt bỏ polyp trực tràng đi là hoàn toàn yên tâm.” – bác hồ hởi kể lại.

“Người cao tuổi như các bác vốn nhiều bệnh, mà mắc bệnh đại tràng lại càng khổ, ăn uống gì cũng phải kiêng khem. Có sản phẩm này giờ yên tâm, vô tư ăn uống.”- bác cười sảng khoái, cùng tôi cạn hết ly bia.

Cường Nguyễn

Tràng Phục Linh có chứa hoạt chất Immunegamma giúp cân bằng hệ vi sinh, tái tạo lại lớp niêm mạc đại tràng. Chi tiết mời quý vị tham khảo ở trangphuclinh.vn hoặc gọi tổng đài 1800.1506 (miễn cước) trong giờ hành chính.

Sản phẩm thực phẩm chức năng Tràng Phục Linh được tiếp thị bởi Công ty TNHH Thực phẩm chức năng LOHHA và đã được Cục An toàn thực phẩm cấp phép PR theo giấy phép PR số 239/2013/XNQC-ATTP.

Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh.

 

Chẩn đoán và điều trị bệnh glôcôm

Glôcôm (còn gọi là thiên đầu thống) là một bệnh lý của đầu dây thần kinh thị giác, tiến triển mạn tính, trên lâm sàng, biểu hiện đặc trưng bởi tổn hại thị trường, lõm teo đĩa thị và thường liên quan đến 1 tình trạng nhãn áp cao.

Đây là một bệnh thường gặp, mang tính xã hội cao, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng vì là một trong những nguyên do chính yếu gây mù lòa vĩnh viễn trên toàn cầu cũng như ở Việt Nam. Glôcôm đứng thứ 2 trong các nguyên do gây mù loà tại đa số các khu vực trên thế giới, thường chỉ đứng sau đục thể thủy tinh. Bệnh hiểm nguy ở chỗ không có thuốc điều trị hoặc phẫu thuật nào có thể phục hồi được những tổn thương chức năng và thực thể do glôcôm gây ra.

Khám mắt cho bệnh nhân tại Bệnh viện Mắt Trung ương.

Bệnh glôcôm rất phức tạp do có rất nhiều hình thái với những cơ chế bệnh sinh, biểu hiện lâm sàng, đòi hỏi các phương pháp điều trị khác nhau. Glôcôm góc đóng thường có biểu hiện lâm sàng cấp tính nên người bệnh thường đi khám chữa ngay để thoát khỏi cơn đau nhức mắt. Glôcôm góc mở là hình thái bệnh mạn tính, không triệu chứng hoặc triệu chứng rất âm ỉ, mờ nhạt. Có tới 50% người bệnh glôcôm góc mở và góc đóng mạn tính chưa biết mình bị bệnh glôcôm. Chỉ tới khi thị lực giảm sút trầm trọng mới phát hiện bệnh thì đã quá muộn.

Ngoài ra, dựa trên trung tâm bệnh căn thì glôcôm có thể chia thành glôcôm nguyên phát và glôcôm thứ phát. Glôcôm nguyên phát là hình thái glôcôm không kèm theo bệnh mắt hoặc bệnh toàn thân nào làm tăng trở lưu thủy dịch. Glôcôm thứ phát luôn kèm theo bệnh căn mắt hoặc bệnh toàn thân gây cản trở lưu thông thủy dịch.

Bệnh glôcôm nếu không được phát hiện và điều trị sẽ tiến triển qua các giai đoạn tiềm tàng, sơ phát, tiến triển, trầm trọng, sắp mù và mù. Vì nguyên sinh bệnh chưa rõ ràng nên không thể bộ phận ngừa mắc bệnh glôcôm. Tuy nhiên, có thể bộ phận tránh được mù loà do glôcôm bằng cách phát hiện sớm, điều trị thích hợp và theo dõi thường xuyên.

Ai có nguy cơ cao bị bệnh glôcôm?

Những người trên 35 tuổi; người ruột thịt của người bệnh glôcôm; người có cấu trúc mắt nghi ngờ glôcôm: Bán kính độ cong giác mạc nhỏ, tiền phòng nông, lõm đĩa thị rộng, chênh lệch độ lõm đĩa giữa hai mắt, bị lão thị sớm, nâng cao số kính lão nhanh; người có nhãn áp ở mức 23mmHg (đo nhãn áp kế Maclacốp) kèm theo các cảm giác chủ quan, triệu chứng khách quan đặc hiệu của glôcôm (rức nửa đầu hoặc cả hai bên, mờ mắt, tức mắt, nhìn nguồn sáng thấy quầng tán sắc xanh đỏ...); người có nhãn áp hai mắt chênh lệch nhau quá 5mmHg; người bệnh có tiền sử dùng corticoid kéo dài (tra mắt hoặc toàn thân); người có bệnh toàn thân như đái tháo đường, cao huyết áp… là những đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh glôcôm.

Biểu hiện lâm sàng

Triệu chứng cơ năng, dấu hiệu thực thể của bệnh phụ thuộc về hình thái glôcôm.

Glôcôm góc đóng cơn cấp:

- Đau nhức mắt đột ngột dữ dội, lan lên đỉnh đầu

- Mắt đỏ, mi nề, sợ ánh sáng, chảy nước mắt

- Bệnh nhân nhìn mờ như qua màn sương, nhìn đèn có quầng xanh đỏ

- Kết mạc cương tụ rìa mạnh

- Giác mạc phù nề, tiền phòng nông, giảm tính trong suốt

- Đồng tử giãn méo, mất phản xạ, bờ đồng tử mất viền sắc tố, mống mắt cương tụ

- Thể thủy tinh mờ đục, có thể rạn bao thể thủy tinh

- Dịch kính phù nề, mất độ trong suốt, không soi rõ đáy mắt

- Soi góc tiền phòng: góc đóng toàn bộ chu vi, có thể có dính góc

- Nhãn áp nâng cao cao, nhãn cầu căng cứng như hòn bi.

Glôcôm góc đóng bán cấp:

- Thỉnh thoảng xuất hiện những cơn đau nhức mắt, nhức đầu thoảng qua kèm theo nhìn mờ. Qua cơn thị lực trở lại bình thường. Các cơn tăng dần về tần suất, mức độ, thị lực ngày càng giảm.

- Kết mạc cương tụ nhẹ, giác mạc phù nề nhẹ, tiền phòng nông, đồng tử giãn méo, phản xạ kém, mống mắt có đám thoái hóa, mất viền sắc tố bờ đồng tử.

- Thể thủy tinh và dịch kính phù nhẹ

- Soi đáy mắt thường thấy có lõm teo đĩa thị giác đặc hiệu của glôcôm

- Soi góc: góc tiền bộ phận đóng

- Nhãn áp cao

- Thị trường tổn hại tùy theo giai đoạn bệnh.

Glôcôm góc đóng mãn tính:

- Thường ít gặp và rất ít triệu chứng

- Không đau nhức hoặc đau nhức rất nhẹ

- Thị lực giảm dần, phần to bệnh nhân đến đã bị mù hoặc gần mù 1 mắt

- Kết mạc không cương tụ, giác mạc trong, tiền phòng nông, góc tiền bộ phận đóng

- Nhãn áp cao hoặc có thể không cao

- Lõm teo đĩa thị điển hình kiểu glôcôm

- Chức năng thị giác tổn hại nhiều (thị lực và thị trường)

Glôcôm góc mở:

Bệnh xuất hiện âm thầm, tiến triển mạn tính, lần lượt qua từng giai đoạn, thị lực cơ sở thường được bảo tồn đến giai đoạn muộn của bệnh, người bệnh không nhận thấy thị lực càng ngày càng bị giảm nên thường tới khám tại giai đoạn muộn khi bệnh đã tiến triển nặng. Đa số người bệnh không đau nhức mắt hay đau nhức đầu, một số người có cảm giác nặng, căng tức mắt thoáng qua, nhìn mờ như qua màn sương, nhìn đèn có quầng xanh đỏ, xuất hiện thành từng cơn ngắn rồi lại tự hết. Triệu chứng không rõ ràng nên thường ít được người bệnh quan tâm.

Hậu quả của bệnh glôcôm.

Phương pháp chẩn đoán bệnh glôcôm

Việc chẩn đoán bệnh glôcôm dựa vào các khám nghiệm thử thị lực, đo nhãn áp, soi đáy mắt, khám thị trường để phát hiện những tổn thương đặc hiệu của bệnh. Cần lưu ý các trường hợp có các triệu chứng đặc hiệu của glôcôm, bị lão thị sớm, nâng cao số kính lão nhanh. Lưu ý người bệnh có huyết áp cao, đái tháo đường vì tỷ lệ glôcôm tại những người này khá cao.

Những đối tượng nguy cơ cao mắc bệnh glôcôm nên đi khám kiểm tra mắt định kỳ ở các cơ sở chuyên khoa mắt.

Biện pháp điều trị

Bệnh glôcôm là một cấp cứu nhãn khoa. Người bệnh được điều trị ngay sau khi chẩn đoán bệnh bằng tra mắt và uống thuốc hạ nhãn áp. Hiện nay, trên thị trường Việt Nam có không ít thuốc hạ nhãn áp với những cơ chế tác động khác nhau: pilocarpin 1%, 2%, timolol 0,25%,0,5%, betoptic S, alphagan P, travatan 0,004%, lumigan, azopt, acetazolamid, glyxerol, manitol… Các thuốc này phải được sử dụng theo chỉ định, dưới sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ nhãn khoa.

Glôcôm góc đóng thường được chỉ định điều trị phẫu thuật sau lúc đã điều trị cấp cứu bằng thuốc. Mắt chưa bị lên cơn glôcôm cũng cần được điều trị dự bộ phận bằng lade hoặc phẫu thuật.

Glôcôm góc mở cần can thiệp phẫu thuật khi điều trị thuốc không đạt hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên hiện nay, tại Việt Nam, tuỳ thuộc điều kiện thực tế của người bệnh, cần chỉ định điều trị phẫu thuật sớm nếu như người bệnh không có điều kiện kinh tế để mua thuốc hoặc không có điều kiện đi lại để thăm khám, kiểm tra, theo dõi định kỳ.

Bệnh glôcôm không thể chữa khỏi hoàn toàn. Mục đích điều trị glôcôm là nhằm ngăn chặn bệnh không tiếp diễn gây tổn thương đầu dây thần kinh thị giác. Trong nhiều trường hợp, glôcôm tuy đã được phát hiện và điều trị, song người bệnh cho rằng đã được chữa trị khỏi hẳn nên không đi khám, theo dõi tiếp. Hậu quả là bệnh vẫn âm ỉ tiếp diễn tiến triển dẫn đến mất dần chức năng thị giác. Bên cạnh đó, trên nhiều người bệnh, mặc dù nhãn áp đã được điều chỉnh bằng thuốc hoặc phẫu thuật nhưng vẫn tiếp diễn bị tổn hại thực thể và chức năng vì mức nhãn áp “điều chỉnh” đó hoặc mức dao động nhãn áp trong ngày chưa an toàn cho thị thần kinh. Vì vậy, người bệnh glôcôm cần phải được chăm sóc theo dõi thường xuyên, theo 1 quy trình chặt chẽ từ lúc được phát hiện bệnh, được điều trị cho đến hết quãng đời còn lại nhằm kiểm soát được diễn biến bệnh, giảm thiểu tối đa tổn hại về thực thể và chức năng thị giác.

PGS.TS. Đào Thị Lâm Hường (Bệnh viện Mắt Trung ương)

Tại sao không nên sử dụng lại dầu ăn?Tại sao không nên dùng lại dầu ăn?Có phải nấm hắc lào?Có phải nấm hắc lào?Bỏ rượu để tránh xơ ganBỏ rượu để tránh xơ gan

 

 

Ðiều trị rối loạn thần kinh thực vật thế nào?

Vì sao bị bệnh rối loạn thần kinh thực vật? Rối loạn thần kinh thực vật nếu đi bấm huyệt có hiệu quả không?

Phạm Xuân Nguyên (xuannguyen@gmail.com)

Bệnh rối loạn thần kinh thực vật đang ngày một phổ biến. Tuy bệnh không ảnh hưởng tới tính mạng nhưng tác động rất lớn đến sinh hoạt của người bệnh. Tùy thuộc về loại rối loạn mà biểu hiện thành các triệu chứng lâm sàng đa dạng khác nhau. Có người phải vào viện cấp cứu nhưng lúc khám xét lại không có bệnh gì rõ ràng. Nhiều người cảm thấy triệu chứng xảy ra bất thường quá giống như chất lượng kém đò nên có thái độ trầm cảm và nghĩ rằng mình bị rối loạn tâm thần nên đến chuyên khoa tâm thần. Triệu chứng biểu hiện của bệnh chỉ gây ra khó chịu cho người bệnh và kéo dài làm đánh tráo tâm lý, giảm chất lượng sống; thường không nguy hiểm.

Sơ đồ chi phối các cơ quan của hệ thần kinh thực vật.

Sơ đồ chi phối các cơ quan của hệ thần kinh thực vật.

Điều trị: bệnh nhân thường được sử dụng các thuốc điều trị triệu chứng và sử dụng tâm lý liệu pháp, vận động liệu pháp. Ngoài ra, kết hợp phương pháp vật lý trị liệu: xông hơi thuốc trên huyệt, xoa bóp, bấm huyệt cũng giúp cho kết quả điều trị cao hơn và nhanh khỏi hơn. Nói chung, rối loạn thần kinh thực vật cần điều trị kiên trì kết hợp tập thể dục hàng ngày. Đặc biệt tập hít thở sâu, xoa vùng trên rốn (đám rối dương) hằng ngày có trị giá lớn trong phòng và điều trị rối loạn thần kinh thực vật. Như vậy, bấm huyệt cũng là biện pháp điều trị hỗ trợ.

BS. Nguyễn Văn Thịnh

5 thực phẩm đánh bay mụn trứng cá5 thực phẩm đánh bay mụn trứng cáMẹo làm sáng màu tóc siêu dễMẹo làm sáng màu tóc siêu dễĐà Nẵng ra công văn khẩn bộ phận chống rắn lục đuôi đỏĐà Nẵng ra công văn khẩn bộ phận chống rắn lục đuôi đỏ

 

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Bí quyết trị rụng tóc sau sinh

Tiếp chúng tôi tại căn nhà ấm cúng cùng với chồng và cậu con trai 17 tháng tuổi, chị hồ hởi kể lại kinh nghiệm trị bệnh rụng tóc của mình:

“Mình dạy tại trường Tiểu học, có 2 con, 1 trai 1 gái. Sinh đứa to cách đây 10 năm thì không sao, nhưng sau khi sinh bé thứ hai thì tóc Tiến hành rụng một cách không thể ngăn được. Quét nhà mà thấy tóc rụng khắp mọi nơi. Thậm chí mình còn sợ không dám chải đầu, vì mỗi lần chải là tóc rụng nhiều lắm, rất xót xa!”.

“Tóc rụng nhiều nhưng mình chưa dám dùng thuốc, vì sợ tác dụng phụ, và cũng nghĩ là sinh con sau một thời gian sẽ hết. Nhưng bé đã cai sữa khá lâu mà tóc mẹ vẫn cứ rụng suốt. Sốt ruột quá, chồng mình vốn hay đọc báo, thấy bài báo viết về 1 sản phẩm trị rụng tóc hay quá nên cầm về cho vợ đọc, rồi tự đi mua vào bắt vợ uống” – chị quay sang cười với ông xã (anh làm trong ngành nghề điện lực, ít nói nhưng rất thương vợ, chiều con).

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

“Uống được 1 tháng thì thấy tóc mình đã bớt rụng hẳn. Tóc mới cũng Tiến hành mọc ra nhiều hơn, ông xã cũng phải công tiếp nhân là tóc mình dạo này dầy hơn trước. Không những thế, tóc mới mọc ra mình cảm thấy còn đen hơn tóc cũ. Nghe mấy người bạn dùng các sản phẩm trị rụng tóc khác thấy mọc ra cả ria mép, mình lo lắm nhưng may quá, uống sản phẩm này mình chỉ thấy tóc mọc tốt hơn thôi mà không thấy có triệu chứng phụ gì cả” – nét mặt cả 2 vợ chồng chị ánh lên vẻ rạng rỡ khi chia sẻ với chúng tôi.

Chị kể, có 1 thời gian sản phẩm khan hiếm trên thị trường, chị đã phải chờ rất lâu để mua hàng tiếp, hiện tại chị đang tiếp tục dùng để đạt được hiệu quả tối đa. Chị cho biết, bí quyết để trị bệnh rụng tóc sau khi sinh của mình là kiên trì uống sản phẩm đúng lộ trình từ hai đến 4 tháng, đúng giờ giấc, trước khi ăn nửa tiếng hoặc sau khi ăn 1 tiếng, một ngày bốn viên, kết hợp với chính sách nghỉ ngơi, làm việc hợp lý.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc có 1 người chồng tâm lý, yêu thương và lo lắng, để ý đến vợ - đó có lẽ là “bí quyết” cấp thiết nhất của chị trong “cuộc chiến” lấy lại dáng vóc, sắc đẹp và sự tự tin của phụ nữ sau khi sinh.

Thái Nguyễn

Đoạn bàn bạc với chị N.T.M.V., có thể nghe ở trung tâm maxxhair.vn, hoặc gọi điện tới Tổng đài 18001506 (miễn cước gọi) trong giờ hành chính để có thêm thông tin chi tiết.

Sản phẩm thực phẩm chức năng viên uống Maxxhair được tiếp thị bởi Công ty TNHH Thực phẩm chức năng LOHHA và đã được Cục An toàn thực phẩm cấp phép PR theo giấy phép PR số 238/2013/XNQC-ATTP.

Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh.

 

Ánh sáng mờ có thể làm ung thư vú kháng thuốc

Một nghiên cứu cho thấy, đèn đường chiếu xuyên qua rèm cửa về ban đêm có thể ngăn chặn tác dụng của các loại thuốc ung thư vú. Chẳng hạn như việc tiếp xúc với ánh sáng lờ mờ có thể làm cho 1 số bệnh ung thư kháng thuốc như tamoxifen. Nghiên cứu này được tuyên bố bố trên tạp chí của Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư, dựa trên những con chuột sống trong 12 giờ của ánh sáng sau đó là 12 giờ của bóng tối, hay đơn thuần là 12 giờ của ánh sáng bình thường sau đó là 12 của ánh sáng lờ mờ. Khi thử nghiệm trên chuột các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, việc bổ sung hormone “melatonin” về ban đêm có thể khắc phục điều này.

Ánh sáng đèn đường có thể ức chế tác dụng của Tamixifen.

Ánh sáng đèn đường có thể ức chế tác dụng của Tamixifen.

GS. Steven Hill, Đại học Tulane, New Orleans (Mỹ), cho biết: "Sức đề kháng với tamoxifen là một khiếu nại càng ngày càng nâng cao ở những bệnh nhân ung thư vú. Dữ liệu của chúng tôi, đã được thử nghiệm ở chuột, nhưng có ý nghĩa tiềm năng cho nhiều bệnh nhân ung thư vú đang được điều trị với tamoxifen. Bởi vì ban đêm thời gian tiếp xúc với ánh sáng, ngay cả ánh sáng mờ, có thể làm cho các khối u của người bệnh trở nên kháng thuốc bằng cách ức chế sự sản xuất melatonin”. Melatonin là một hormone nội sinh trong cơ thể, nó có vai trò quan trọng trong việc điều hòa nhịp sinh học ngủ - thức của cơ thể, bảo đảm giúp cơ thể có giấc ngủ ngon và thức dậy tỉnh táo vào ngày hôm sau.

Sự tổng hợp Melatonin của tuyến tùng chịu ảnh hưởng của chu kì ngày đêm. Bóng tối làm cho cơ thể sản xuất Melatonin nâng cao lên, báo hiệu cơ thể để chuẩn bị cho giấc ngủ. Ánh sáng làm giảm sản xuất Melatonin và báo hiệu cho cơ thể để chuẩn bị cho lúc thức.

Giáo sư Hill nói: "Thực sự bóng tối rất là quan trọng. Trong đêm, nếu bạn ngủ trong 1 căn phòng sáng rực rỡ, nồng độ melatonin của bạn có thể bị ức chế. Tuy nhiên, ví dụ bạn đang tại trong bóng tối nhưng không thể ngủ, mức độ melatonin của bạn vẫn sẽ tăng lên bình thường".

Ông cũng cảnh báo việc bệnh nhân bổ sung melatonin tự nhiên: "Melatonin được sản xuất bởi cơ thể chúng ta hoàn toàn trong bóng tối vào ban đêm và dùng thuốc bổ sung melatonin sai thời gian về ban ngày có khả năng sẽ phá vỡ sinh học (chu kỳ ngủ-thức), chính nó, làm giảm tác dụng của thuốc chống ung thư vú tamoxifen".

Tuy nhiên nghiên cứu này lại không xác định việc tiếp xúc với ánh sáng tại cường độ bao nhiêu sẽ làm ngăn chặn sụ sản xuất melatonin. Nhưng Giáo sư Hill nói: "Chúng tôi nghĩ rằng nó có thể ít nhất là lượng ánh sáng đường phố chiếu qua cửa sổ bộ phận ngủ”.

Việt Hà (Telegraph)

 

Sex trước hôn nhân kết hôn có hạnh phúc?Sex trước hôn nhân kết hôn có hạnh phúc?Giải đáp hàng ngày những băn khoăn vào sức khỏe của bạn đọcGiải đáp hàng ngày những câu hỏi về sức khỏe của bạn đọcGiật mình chuyện 10X xưng vợ chồng, kể yêu đương thắm thiết trên mạng xã hộiGiật mình chuyện 10X xưng vợ chồng, kể yêu đương thắm thiết trên mạng xã hội

 

Việt Hà (Telegraph)

(BBC, Telegraph)

Giúp con cao lớn hơn ở tuổi dậy thì

Một vóc dáng cao to là niềm mơ ước của tất cả bạn đọc trẻ. Giai đoạn dậy thì là thời điểm cần yếu cho phát triển chiều cao. Ðể đạt được chiều cao tối ưu, hãy thực hiện tốt những phương cách dưới đây ngay từ tuổi dậy thì.

Hiểu rõ tầm nhu yếu của tuổi dậy thì với phát triển chiều cao

Chiều cao của con người ảnh hưởng bởi các yếu tố: dinh dưỡng (32%), di truyền (23%), rèn luyện thể lực (20%), môi trường sống, bệnh tật, giấc ngủ... Nếu được nuôi dưỡng tốt, trong cùng một gia đình, thế hệ sau luôn có chiều cao vượt hơn thế hệ trước.

Tuổi dậy thì là giai đoạn phát triển mạnh về chiều cao.

Chiều cao nâng cao nhiều nhất về vài năm đầu đời và tuổi dậy thì. Ở giai đoạn dậy thì sẽ có khoảng thời gian mà chiều cao nâng cao vọt thêm 10-12cm 1 năm nếu như được chăm sóc dinh dưỡng và ý thức tập luyện thể lực tốt. Vì thế, muốn chiều cao phát triển tốt, các em phải cực kỳ ý thức “chăm sóc” chiều cao ngay từ giai đoạn mới Tiến hành dậy thì (11-12 tuổi trở đi). Sau giai đoạn dậy thì, sự sụt giảm của các nội tiết tố liên quan đến hấp thu canxi và phốt-pho làm cho sự phát triển chiều cao chậm lại do ngừng quá trình chuyển canxi vào xương. Khi đã hết dậy thì (sau 18 tuổi), chiều cao của các em sẽ nâng cao rất chậm và hầu như chỉ cao thêm được chừng 1-2cm (các em trai có thể cao tới 22-25 tuổi, các em gái có thể cao tới 20-22 tuổi). Nếu bỏ qua giai đoạn dậy thì tức là các em đã hoài phí một cơ hội ngàn vàng tăng trưởng chiều cao và cơ hội sẽ không bao giờ trở lại 1 lần nữa.

Rèn luyện thể lực giúp phát triển chiều cao

Lối sống ít vận động sẽ ức chế sự phát triển của cơ, xương, qua đó làm giảm chiều cao lẽ ra có thể đạt được. Tập thể dục đóng 1 vai trò cần phải có trong việc phát triển chiều cao ở trẻ. Mỗi ngày nên dành 30 phút tới 1 tiếng để luyện tập. Các bài tập phát triển chiều cao dành cho tuổi thiếu niên giúp kéo giãn các chi và mô tế bào trong cơ thể. Những hoạt động thể thao như bóng rổ, bơi lội, quần vợt và bóng đá, cầu lông... sẽ giúp ích hầu hết cho chỉ tiêu nỗ lực chiều cao tại trẻ. Ngoài ra, 1 số động tác yoga cũng có tác dụng kích thích tăng trưởng chiều cao khá hiệu quả. Ngoài ra, tắm nắng mỗi ngày 20 phút sẽ khiến diện tích da được tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng, tăng tổng hợp vitamin D cho cơ thể. Vitamin D còn là chất cần phải có cho xương phát triển. Thiếu vitamin D sẽ giảm hấp thu canxi gây còi xương, chậm to ở trẻ đang phát triển. Trẻ tại tuổi dậy thì cần hấp thụ 600 IU vitamin D mỗi ngày. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết trẻ tuổi dậy thì mới hấp thụ khoảng 400 IU vitamin D mỗi ngày. Điều này có thể gây những ảnh hưởng không rất tốt lên sức khỏe bộ xương của trẻ ở giai đoạn trưởng thành.

Dinh dưỡng hợp lý giữa “chất và lượng”

Chế độ dinh dưỡng đúng đắn không chỉ đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển về thể chất của trẻ, mà còn chi phối to đến sự nâng cao trưởng chiều cao. Suy dinh dưỡng sẽ khiến trẻ còi cọc, không đạt được chuẩn theo từng mốc phát triển. Do đó, 1 chính sách ăn uống cân bằng là điều thiết yếu để phân phối cho cơ thể đầy đủ dưỡng chất.

Một bữa sáng đầy đủ dưỡng chất luôn là khuyến cáo trước hết của các chuyên gia vào dinh dưỡng. Bỏ bữa sáng có thể dẫn đến nhiều rắc rối vào tiêu hóa như đau dạ dày, khó tiêu, đầy hơi... và làm gia tăng lượng axit tích tụ trong dạ dày, khiến dạ dày dễ bị tổn thương. Một bữa sáng lành mạnh sẽ góp phần hỗ trợ sự bàn bạc chất, giúp cơ thể hấp thu chất dinh dưỡng nhiều và hiệu quả. Điều này sẽ tác động to đến khả năng nâng cao trưởng về chiều cao cho trẻ.

Ở giai đoạn dậy thì, cơ thể trẻ cần nhiều năng lượng. Nam cần 2.500-2.800 calo và nữ cần ít nhất 2.200 calo mỗi ngày. Khẩu phẩn ăn nhiều protein sẽ giúp trẻ cao to và phát triển rất tốt hơn. Vì protein có chức năng xây dựng hệ thống cơ bắp. Cần ăn thịt nạc, sữa ít béo, các loại hạt, trái cây tươi và rau quả, thực phẩm giàu canxi (sữa, tôm cua...). Nên giảm thiểu ăn uống các loại thức ăn vặt không chứa hoặc chứa quá ít năng lượng. Lứa tuổi này nên ăn khoảng 6 bữa trong ngày thay vì duy nhất 3 bữa ăn chính. Việc chia nhỏ bữa ăn giúp cơ thể hấp thu được chất dinh dưỡng nhanh chóng nhất và đầy đủ hơn. Lượng dưỡng chất này đảm bảo cho hormon tăng trưởng được bài tiết rất tốt hơn, kích thích cơ thể phát triển nhanh và đạt được 1 chiều cao lý tưởng. Bên cạnh đó cũng cần chú ý đưa về khẩu phần ăn những chất dinh dưỡng có liên quan mật thiết đến việc giúp nâng cao trưởng chiều cao như: protein (đạm), vitamin A, vitamin D, lysin, canxi, sắt, kẽm, iốt, man-gan và phốt-pho để hỗ trợ cho sự nâng cao trưởng. Lưu ý kẽm là chất cấp thiết cho trẻ dậy thì. Đây là khoáng chất rất cần cho sự tăng trưởng và cho hệ sinh dục trong độ tuổi dậy thì. 1/3 bạn đọc tuổi dậy thì bị thiếu kẽm. Lượng kẽm cần phải phân phối cho độ tuổi từ 9-13 là 8mg/ngày, từ 14 - 18 tuổi là 11 mg mỗi ngày.

Một điều cần phải có nữa của dinh dưỡng cho trẻ dậy thì là uống nhiều nước. Nước giúp loại thải độc tố và thanh lọc cơ thể, hỗ trợ khả năng hấp thu chất dinh dưỡng, góp phần nỗ lực chiều cao cho trẻ. Cần tránh xa đồ uống có cồn hay các chất kích thích đều là những tác nhân có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tăng trưởng của trẻ. Hút thuốc lá và uống rượu, bia ở thời điểm cơ thể chưa trưởng thành làm ngừng quy trình phát triển tự nhiên, khiến cơ thể bị thiếu chất.

Ngủ đủ và đúng giờ

Thói quen ngủ, nghỉ ngơi khoa học giúp ích hầu hết cho sự phát triển thể chất của trẻ, bởi lúc ngủ, cơ thể sẽ tái tạo và phục hồi các tế bào. Ngủ đủ 8 giờ về ban đêm, nên đi ngủ sớm, dậy sớm sẽ tốt cho cơ thể rất nhiều. Hơn nữa, buổi trưa nên ngủ khoảng 15-30 phút cũng rất quan trọng cho sức khỏe. Bởi vì nếu như ngủ đủ giấc và đúng giờ sẽ cho các em 1 giấc ngủ sâu. Các hormon nâng cao trưởng được sản sinh trong lúc cơ thể đang ngủ. Thời gian và chất lượng của giấc ngủ càng cao thì cơ thể càng tiết ra nhiều hormon hơn, làm quy trình tăng trưởng của trẻ phát triển tốt hơn.

BS. Hạnh Nguyễn

Ðề bộ phận liệt mặt do lạnhÐề bộ phận liệt mặt do lạnhNhận biết 4 căn bệnh ung thư phổ biến nhất từ bên ngoàiNhận biết 4 căn bệnh ung thư phổ biến nhất từ bên ngoàiThuốc chữa bệnh sốt rét có thể chữa được ung thư?Thuốc chữa bệnh sốt rét có thể chữa được ung thư?

 

 

12 bệnh thường gặp do thiếu vitamin D

Trong một cuộc khảo sát được tiến hành tại Anh cho thấy hơn một nửa số người to ở Anh không có đủ vitamin D, đặc biệt trong mùa đông và mùa xuân, cứ 6 người có một người thiếu hụt vitamin D tại mức độ nghiêm trọng. Nhiều người cho rằng đây là loại vitamin không quan trọng, nhưng thiếu hụt nó lại gây ra rất nhiều căn bệnh phổ biển ở người.

Vitamin D là gì?

Vitamin D rất nhu yếu đối với cơ thể con người, nó đóng vai trò chính trong việc bảo đảm hoạt động của cơ bắp, tim, phổi và chức năng hoạt động của não. Không giống các loại vitamin khác, vitamin D rất nhất là bởi con người có thể tự tổng hợp được loại vitamin này nhờ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Bạn cũng có thể tiếp nhân được vitamin D từ thuốc bổ, và một số lượng rất nhỏ từ một vài loại thực phẩm như 1 số loài cá, dầu gan cá, lòng đỏ trứng và sữa bổ sung, ngũ cốc và các sản phẩm ngũ cốc…

Nên dành thời gian tắm nắng bao lâu để có đủ vitamin D?

Để tìm ra một con số thống nhất cho mọi người là rất khó bởi cơ thể mỗi người không như nhau với nhu cầu, môi trường sống, các mùa trong năm đều không như nhau nhau. Để có đủ lượng vitamin D mỗi người cần căn cứ về độ nhạy của làn da, độ dày mỏng tầng ozone nơi bạn sinh sống, các mùa trong năm, hay thời gian nào phơi nắng rất tốt nhất….

Nói chung, các chuyên gia y tế đều cho rằng, tiếp xúc hàng ngày với ánh nắng trong khoảng thời gian ngắn từ 10-15 phút vào mùa hè là đủ lượng vitamin D cho mỗi người. Cần lưu ý rằng lúc tắm nắng, không cần thoa kem chống nắng bởi kem chống nắng ức chế sản xuất vitamin D. Các nghiên cứu khoa học đều chỉ ra rằng thời gian hiệu quả nhất để cơ thể “sản xuất” ra vitamin D từ 11 giờ - 15 giờ.

Thiếu vitamin D có rất nhiều nguyên nhân

Một số người thường có hiện tượng tình trạng thiếu vitamin D do sống ở các vùng vĩ độ phía Bắc, thường mặc quần áo dài, hoặc làm các công việc không phải ra ngoài. Những người có làn da sẫm màu (da đen) có mức độ melanin, sắc tố da, làm giảm khả năng tạo vitamin D lúc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

Những người mắc các bệnh về thận, gan, khả năng chuyển đổi vitamin D cũng hạn chế dẫn tới thiếu vitamin quan trọng này. Vitamin D thường có trong các loại động vật, nên những người ăn chay trường sẽ không có cơ hội bổ sung vitamin D từ thực phẩm. Vitamin D có trong các loại cá và dầu cá, lòng đỏ trứng, phô mai, sữa bổ sung và gan bò.

Đối với những người mắc các vấn đề vào tiêu hóa như bệnh viêm ruột mạn tính, xơ nang, không hấp thu được gluten, ruột sẽ giảm khả năng hấp thụ vitamin D từ thực phẩm.

Béo phì cũng làm cho cơ thể thiếu vitamin D. Nghiên cứu cho thấy vitamin D thường bị ‘ kẹt` trong mô mỡ nên làm cho cơ thể trở thiếu loại vitamin này.

Nếu thiếu vitamin D, bạn có thể mắc phải 1 trong 12 căn bệnh dưới đây:

1. Loãng xương: Có đủ lượng canxi và vitamin D cực kỳ cấp thiết trong việc duy trì mật độ xương. Thiếu vitamin D khiến cho lượng canxi cạn kiệt, làm suy yếu xương và tăng nguy cơ gãy xương.

2. Bệnh hen suyễn: Thiếu vitamin D sẽ ảnh hưởng tới chức năng hoạt động của phổi và làm cho bệnh hen suyễn tồi tệ hơn, nhất là là tại trẻ em. Vitamin D có thể nỗ lự bệnh hen suyễn bằng cách ngăn chặn các protein gây viêm trong phổi, cũng như gia nâng cao sản xuất 1 loại protein có tác dụng chống viêm.

3. Bệnh tim mạch: Khi cơ thể thiếu vitamin D có thể dẫn tới bệnh cao huyết áp, tăng nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch.

4. Gây viêm: Chính là một phản ứng của hệ miễn dịch nếu như nó không được mang đến vitamin D, trong đó bao gồm các dạng như viêm khớp dạng thấp, lupus, bệnh viêm ruột (IBD) và bệnh tiểu đường loại 1.

5. Tăng Cholesterol: Vitamin D có tác dụng điều chỉnh nồng độ cholesterol trong máu. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, ví dụ không có ánh nắng mặt trời đầy đủ, tiền chất của vitamin D sẽ chuyển thành cholesterol thay vì vitamin D.

6. Dị ứng: Trẻ em không được cung cấp đầy đủ vitamin D có rất nhiều khả năng có bị dị ứng thực phẩm.

7. Cúm: Một số nghiên cứu cho thấy mối liên lạc giữa thiếu vitamin D và bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, những người có nồng độ vitamin D thấp thường dễ bị cảm lạnh và cúm hơn những người có nồng độ vitamin D cao trong cơ thể.

8. Trầm cảm: Thụ thể vitamin D có mặt trên nhiều khu vực của não và tham dự về các quy trình hoạt động của não bộ, nên việc bổ sung vitamin D đóng vai trò cần yếu trong điều trị trầm cảm.

9. Bệnh tiểu đường Type-2 : Các nghiên cứu trên toàn cầu đã chứng minh mối tương quan giữa nồng độ vitamin D thấp và sự phát triển của bệnh tiểu đường loại 2. Có bằng chứng cho thấy vitamin D giúp nỗ lự chức năng tế bào beta tiết insulin do vậy tăng - và hạn chế glucose huyết thanh ở những người có nguy cơ cao mắc bệnh. Muốn không mắc bệnh tiểu đường type 2 hãy bổ sung vitamin D.

10. Sức khỏe răng miệng : Một số báo cáo gần đây cho thấy 1 liên hệ giữa sức khỏe răng miệng và uống vitamin D. Những người có mức vitamin D thấp có tỷ lệ mất răng nhiều hơn những người có mức vitamin D cao.

11. Viêm khớp dạng thấp: Thiếu vitamin D làm cho phát triển các bệnh như viêm khớp dạng thấp, viêm khớp . Những thực nghiệm trên những người tình nguyện đã cho thấy rằng những phụ nữ nhận được nhiều vitamin D dường như ít có khả năng bị viêm khớp dạng thấp.

12. Ung thư : Sự thiếu hụt vitamin D có thể liên quan đến bệnh ung thư: 1 nghiên cứu đã chỉ ra rằng hơn 75% những người bị nhiều loại bệnh ung thư không như nhau có nồng độ vitamin D thấp, và mức thấp nhất có hiện tượng ở những bệnh nhân ung thư đang trong thời kỳ phát triển mạnh. Tuy nhiên nghiên cứu này vẫn cần phải được tiếp diễn bởi chưa có bằng chứng về việc liệu hàm lượng vitamin D cao có tiết kiệm nguy cơ ung thư hay tử vong do ung thư hay không.

Phải làm gì khi thiếu vitamin D?

Một xét nghiệm máu đơn thuần có thể xác định có hay không có tình trạng thiếu vitamin D. Bác sĩ có thể hỗ trợ tư vấn cho bạn nếu như bạn cần được bổ sung vitamin D. Cần phải biết rằng không có sự đồng nhất về mức độ vitamin D cho mỗi người bởi hàm lượng vitamin D còn phụ thuộc về điều kiện sức khỏe, tuổi tác....

Nguyễn Bạch Dương

Theo Healthy and natural world

Những dấu hiệu cảnh báo bệnh tật tại đôi chânNhững dấu hiệu cảnh báo bệnh tật ở đôi chân10 cách để không mắc bệnh truyền nhiễm10 cách để không mắc bệnh truyền nhiễmChăm sóc người bệnh có đặt thông JJChăm sóc người bệnh có đặt thông JJ